Thiền Viện Thường Chiếu
01. La Hán Ba Tiêu02. La Hán Bố Đại03. La Hán Cử Bát 04. La Hán Hàng Long05. La Hán Khai Tâm06. La Hán Kháng Môn07. La Hán Khánh Hỷ08. La Hán Khoái Nhĩ 09. La Hán Kỵ Tượng | 10. La Hán Phục Hổ11. La Hán Quá Giang12. La Hán Thác Tháp13. La Hán Thám Thủ14. La Hán Tiếu Sư15. La Hán Tĩnh Tọa16. La Hán Tọa Lộc17. La Hán Trầm Tư18. La Hán Trường Mi |
LỜI ĐẦU SÁCH
Thập
Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian.
Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực
gần gũi chúng sanh.
Tranh
tượng Bồ-tát trình bày một thế giới trang nghiêm hương
hoa nhã nhạc. Tranh tượng La-hán trình bày những nét sống
động của các bậc Thánh hết sức hồn nhiên phụng hiến
năng lực của mình.
Tập
tiểu truyện về 18 vị La-hán được thực hiện nhân dịp
thiền viện Thường Chiếu khánh thành La
Hán Đường vào tháng Chạp năm Ất Dậu (01-2006),
để giúp các huynh đệ hiểu thêm về các vị La-hán, tăng
trưởng niềm tin của mình đối với Phật pháp. Đó là ước
vọng của chúng tôi.
Thiền
Viện Viên Chiếu cuối năm Ất Dậu
Ni Sư Như Đức
01. La Hán Tọa Lộc
Nhân
một hôm Tôn giả dùng thần thông lấy cái bát quý treo trên
cây trụ cao của một trưởng giả, bị Phật quở trách việc
biểu diễn thần thông làm mọi người ngộ nhận mục đích
tu học Phật pháp. Phật dạy Tôn giả phải vĩnh viễn lưu
lại nhân gian để làm phước điền cho chúng sanh, vì thế
trong các pháp hội Tôn giả thường làm bậc ứng cúng. Một
lần ở thời Ngũ Đại, triều vua Ngô Việt thiết trai, có
một Hòa thượng lạ, tướng mạo gầy ốm, lông mày dài bạc
trắng bay đến ngồi vào chỗ dành cho khách quý mà ăn uống
vui vẻ. Ăn xong Ngài tuyên bố Ngài là Tân-đầu-lô. Dưới
thời vua A-dục và vua Lương Võ Đế, Ngài đích thân hiện
đến giáo hóa, làm tăng trưởng lòng tin. Thời Đông Tấn
ngài Đạo An là bậc cao tăng phiên dịch kinh điển thường
lo buồn vì sợ chỗ dịch của mình sai sót. Ngài khấn nguyện
xin chư Hiền Thánh hiển lộ thần tích để chứng minh. Tối
hôm đó Ngài nằm mộng thấy một vị Hòa thượng lông mày
trắng nói:
- Ta
là Tân-đầu-lô ở Ấn Độ, lấy tư cách là một đại A-la-hán,
ta bảo chứng những kinh điển ông dịch đều rất chính xác.
Tôn
giả Tân-đầu-lô là một vị La-hán rất gần gũi nhân gian,
Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ nhất, thường cùng
1.000 vị La-hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu.
Ngài
tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa), còn gọi
là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen Ngài là
vị La-hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất
gia Ngài là người rất tuân thủ khuôn phép, giữ gìn từ
lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho
phát khởi. Sau khi xuất gia, Ngài càng nỗ lực tinh tấn tu
tập, nhờ thiện căn sâu dày Ngài chứng quả A-la-hán rất
mau.
Ngài
thường đi du hóa khắp nơi với gương mặt tươi vui và dùng
biện tài thuyết pháp để chiêu phục chúng sanh. Thấy mọi
người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác hằng ngày, tương
lai bị quả khổ địa ngục nên khi thuyết pháp Ngài thường
xiển minh giáo lý nhân quả thiện ác, giúp chúng sanh phân
biệt rõ ràng để sửa đổi. Một lần nọ đi ngang qua thôn
trang, thấy một gia đình đang giết vô số trâu dê gà vịt
để làm lễ mừng thọ. Ngài ghé lại, thuyết giảng một
hồi về phương pháp chúc thọ, về cách mừng sinh nhật để
được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh thành. Ngài
dạy rằng, ngày sinh nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của
mẹ, nên phận làm con không được ăn uống vui chơi, trái
lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha mẹ, quyết chí tu
tập thành tựu đạo nghiệp.
Bằng
cách giảng dạy chân thật, Tôn giả suốt đời như ngọn
hải đăng đem ánh sáng Phật pháp soi rọi nhân sinh.
Theo
Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ hai, thường cùng 500
vị La-hán trụ tại nước Ca-thấp-di-la (Kashmir).
03.
La-hán Cử Bát
Tên
của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà 迦諾迦跋釐墮蛇 (Kanakabharadvāja).
Ngài là vị Đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo
hóa vùng Đông Thắng Thần Châu.
Quốc
vương nước Tăng-già-la ở Nam Hải không tin Phật pháp, Tôn
giả Ca-nặc-ca tìm cách hóa độ. Một sớm mai, khi đang cầm
gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh sợ vì trong gương
không có mặt mình mà có hình dáng vị đại sĩ Bạch Y. Đây
là do phép thần biến của Tôn giả. Theo lời khuyên của quần
thần, nhà vua cho tạc tượng Bồ-tát Quan Thế Âm để thờ
phụng và từ đó hết lòng tin Phật.
Ngài
Huyền Trang khi sang Ấn Độ, trú tại chùa Na-lan-đà nghe kể
câu chuyện sau: Sau khi Phật Niết-bàn vài trăm năm, quốc vương
nước Ma-kiệt-đà làm lễ lạc thành ngôi chùa Đại Phật,
thỉnh mấy ngàn vị Hòa thượng đến cúng dường. Khi mọi
người bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên có hai vị Hòa thượng
từ không trung bay xuống. Cả hội chúng kinh ngạc, vua hỏi
lai lịch thì một vị xưng là Tân-đầu-lô ở Tây-cù-da-ni
châu, một vị xưng là Ca-nặc-ca ở Đông Thắng Thần Châu.
Vua vui mừng thỉnh hai Tôn giả chứng minh trai phạn. Thọ trai
xong, hai vị cười nói:
- Này
các vị, 16 La-hán chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian,
cùng tu tập với tất cả Phật tử chí thành đời sau.
Tôn
giả Ca-nặc-ca thường mang một cái bát sắt bên mình khi du
hành khất thực, nên được gọi là La-hán Cử Bát.
Theo
Pháp Trụ Ký ngài là vị La-hán thứ ba, thường cùng 600 vị
A-la-hán trú tại Đông Thắng Thần Châu.
04.
La Hán Thác Tháp
Tên
của Ngài là Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda). Thường ngày, Ngài
tu tập rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt tình nhưng ít thích
nói chuyện. Tôn giả ít khi đi theo đức Phật ra ngoài, Ngài
chỉ ở yên nơi tinh xá đọc sách hoặc quét sân. Có người
phê bình cách nói chuyện của Ngài không hay, đức Phật biết
được an ủi: "Này Tô-tần-đà! Nói chuyện hay hoặc dở không
liên quan gì đến vấn đề giác ngộ. Mọi người chỉ cần
y theo lời ta dạy mà thực hành, dù không nói câu nào cũng
thành tựu sự giải thoát".
Đúng
thật là Tôn giả hiếm khi lãng phí thời gian vào việc tán
gẫu, chỉ dành trọn thời gian tọa thiền nên chứng quả
A-la-hán rất sớm.
Đương
thời vua nước Án-đạt-la muốn xây dựng một tinh xá u tịch
tại núi Hắc Phong, nhưng tìm không ra những tảng đá lớn.
Tôn giả chỉ cần vận thần thông trong một đêm, mang đến
vô số đá rất lớn từ bên kia sông Hằng. Quốc vương lại
muốn tạo một pho tượng thật lớn bằng vàng tôn trí trong
tinh xá nhưng kho lẫm quốc gia không đủ cung ứng. Tôn giả
chỉ cần nhỏ vài giọt nước xuống mấy phiến đá, chúng
đều biến thành vàng. Quốc vương vui mừng gọi thợ giỏi
nhất, đến lấy vàng đúc tượng để nhân dân chiêm lễ.
Năm
trăm năm sau Phật diệt độ, Tôn giả nhiều lần hiện thân
tại nước Kiện-đà-la để giáo hóa. Hình tượng Ngài được
tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi thờ xá-lợi
Phật, giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì
thế Ngài được gọi là La-hán Nâng Tháp.
Theo
Pháp Trụ Ký, ngài Tô-tần-đà là vị La-hán thứ tư, thường
cùng 700 vị A-la-hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu.
Tên
của Ngài là Nặc-cù-la 諾矩羅 (Nakula). Trên vách hang thứ
76 của động Đôn Hoàng có vẽ hình tượng Ngài ngồi kiết
già trên phiến đá. Theo truyền thuyết, Ngài thuộc giai cấp
Sát-đế-lợi sức mạnh vô song, đời sống chỉ biết có
chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả
A-la-hán trong tư thế tĩnh tọa.
Đương
thời của Tôn giả, có ngoại đạo Uất-đầu-lam-tử, công
phu thiền định cao, từng biện bác với hy vọng chinh phục
Tôn giả theo pháp thuật của mình. Nhưng với niềm tin chân
chánh, Tôn giả khẳng định rằng chỉ có công phu tọa thiền,
quán chiếu bằng trí tuệ, sức nhẫn nhục bền bỉ, nghiêm
trì tịnh giới mới đạt được định lực không thối chuyển.
Pháp tu luyện ngoại đạo chỉ được định lực tạm thời,
không thể an trú vĩnh viễn trong pháp giải thoát, khi gặp
cảnh bên ngoài quấy nhiễu sẽ bị hủy hoại.
Sau
này quả nhiên Uất-đầu-lam-tử thọ hưởng sự cúng dường
nồng hậu của vua nước Ma-kiệt-đà, vì khởi vọng tâm mà
toàn bộ công phu tiêu tán, sau khi chết lại rơi vào địa
ngục. Tôn giả Nặc-cù-la dùng thiên nhãn thấy rõ điều ấy,
một lần nữa cảnh giác với vua Ma-kiệt-đà:
- Đó
chính là pháp tu không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền
não căn bản của con người chưa được diệt trừ hết.
Vua
nghe Tôn giả giải thích mới hiểu được Phật pháp chân
chánh đáng quý, phát khởi niềm tin nơi Tôn giả.
Theo
Pháp Trụ Ký, Tôn giả Nặc-cự-la được xếp vào vị trí
La-hán thứ năm, Ngài thường cùng 800 vị A-la-hán trụ ở
Nam Thiệm Bộ Châu.
06. La Hán Quá Giang
Tên
của Ngài là Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi
là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức
là cây Hiền.
Theo
truyền thuyết, Tôn giả rất thích tắm rửa, mỗi ngày tắm
từ một đến mười lần, và như vậy rất mất thời gian
đồng thời trễ nải công việc. Chẳng hạn khi mọi người
thọ trai, Ngài lại đi tắm, khi lên ăn thì cơm rau đã hết.
Nhiều buổi tối, Ngài lén đi tắm khi mọi người đang tọa
thiền. Thậm chí ngủ nửa đêm cũng thức dậy đi tắm, có
khi một đêm tắm năm, sáu lần! Việc này đến tai đức Phật.
Thế Tôn kêu Tôn giả đến bên, chỉ dạy cách tắm rửa thiết
thực, nghĩa là ngoài việc tẩy rửa thân thể còn phải tẩy
rửa cấu uế trong tâm, gột sạch các tham sân phiền não để
cả thân tâm đều thanh tịnh.
Tiếp
nhận lời Phật dạy, Tôn giả hành trì theo ý nghĩa đích
thực của việc tắm rửa, siêng năng gột rửa tâm nên chẳng
bao lâu chứng quả A-la-hán. Từ đó tắm rửa là một pháp
tu hữu dụng thiết thực mà Tôn giả thường khuyên dạy mọi
người. Các tự viện Trung Hoa thường thờ hình tượng Ngài
trong nhà tắm để nhắc nhở ý nghĩa phản tỉnh tư duy.
Tôn
giả cũng thường dong thuyền đi hoằng hóa các quần đảo
của miền đông Ấn Độ như Java, Jakarta… nên được mang
tên La-hán Quá Giang.
Theo
Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ sáu, thường cùng 900
vị A-la-hán trụ tại Đam-một-la-châu
07.
La Hán Kỵ Tượng
Tên
của Ngài là Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica), trước khi xuất gia làm
nghề huấn luyện voi. Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức
Phật bảo Ngài nên ở tại quê hương mình (Tích Lan) để
ủng hộ Phật pháp.
Phật
đến Tích Lan thuyết kinh Lăng Già, Tôn giả cũng là một trong
số đệ tử đi theo. Đức Phật sắp rời đảo, vua Dạ-xoa
cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm tại đảo để
làm niềm tin cho hậu thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình
trên một ngọn núi, nơi đó trở thành Phật Túc Sơn, và bảo
tôn giả Ca-lý-ca gìn giữ thánh tích này. Phật Túc Sơn nổi
tiếng khắp nơi, mọi người đua nhau chiêm lễ. Trải qua thời
gian nó bị chìm vào quên lãng, con đường dẫn lên núi bị
cỏ hoang phủ kín. Trong dịp vua Tích Lan là Đạt-mã-ni-a-ba-á
bị kẻ địch rượt đuổi nên chạy trốn vào hang núi, Tôn
giả hóa thành một con nai hoa rất đẹp dụ dẫn nhà vua lên
núi để hiển lộ lại dấu chân Phật. Sau nhiều triều đại
kế tiếp, Phật Túc Sơn lại không người viếng thăm. Tôn
giả một phen nữa hóa thành thiếu nữ bẻ trộm hoa trong vườn
của vua. Khi bị bắt, thiếu nữ chỉ tay lên ngọn núi phủ
sương mờ, bảo rằng mình hái hoa cúng Phật ở trên ấy.
Phật Túc Sơn từ đó khắc sâu hình ảnh trong lòng người,
mỗi năm đến ngày 15 tháng 3 âm lịch, quần chúng kéo nhau
đi lễ bái thánh tích rầm rộ không ngớt.
Theo
Pháp Trụ Ký, Tôn giả Ca-lý-ca là vị La-hán thứ bảy, cùng
với 1.000 vị A-la-hán luôn thường trụ tại Tăng Già Trà
Châu (Tích Lan).
Tên
của Ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la 伐闍羅弗多羅 (Vajraputra).
Tương truyền khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn,
thể lực rất tráng kiện, một tay có thể nâng một con voi,
hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn 10 mét. Mỗi khi muông
thú chạm mặt Ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất
gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La-hán. Lại có một
con sư tử thường quấn quýt bên Ngài, do đó Ngài được
biệt hiệu La-hán Đùa Sư Tử.
Về
phía Bắc tinh xá Trúc Lâm có ao Ca-lan-đà, nước trong mát
có thể trị lành được nhiều bịnh, đức Phật vẫn thường
đến đó thuyết pháp. Sau khi Phật diệt độ, nước ao bỗng
cạn khô, ngoại đạo bèn phao tin rằng Phật pháp đã suy vi.
Tôn giả Phạt-xà-la-phất-đa-la từ châu Bát-thích-noa bay đến,
lấy tay chỉ xuống ao, lập tức nước đầy trở lại. Tôn
giả bảo mọi người rằng:
- Nước
ao cạn khô vì mọi người không có niềm tin kiên cố nơi
Phật pháp. Nếu tất cả đều vâng lời Phật dạy, một lòng
tín thọ phụng hành như khi Phật còn tại thế thì tôi bảo
đảm nước trong ao sẽ không bao giờ cạn khô.
Mọi
người nghe Tôn giả nói, ngưỡng vọng uy thần và nhiệt tâm
hộ trì Phật pháp của Tôn giả nên phát khởi lòng tin Tam
bảo. Từ đó nước ao luôn trong xanh và tràn đầy.
Qua
câu chuyện trên chúng ta có thể thấy các bậc La-hán luôn
ở tại nhân gian để xiển dương pháp Phật.
Theo
Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 8, thường cùng 1.100
vị La-hán? trụ ở châu Bát-thích-noa.
09. La-hán Khai Tâm
Hình
tượng vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm Phật. Ngài tên
là Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn
nổi danh, nghe nói thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca
không tin nên chặt một cây trúc dài đúng một trượng sáu
để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ cách nào,
thân Phật vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang
dài rồi leo lên thang đo lại, kết quả cũng vậy. Đo đến
mười mấy lần, không còn cây thang nào dài hơn mà thân Phật
vẫn cao hơn. Lúc này ông thiệt tình khâm phục và xin quy y
làm đệ tử.
Sau
khi xuất gia, trải qua bảy năm khổ hạnh, Ngài chứng quả
A-la-hán. Vì muốn kỷ niệm nhân duyên đo Phật mà xuất gia
ngộ đạo, Ngài lấy cây sào lúc trước, đi đến chỗ cũ
nói:
- Nếu
Phật pháp là chân lý ngàn đời thì xin cây sào này mọc lại
và sinh trưởng ở đây.
Nói
xong, Ngài cắm cây sào xuống đất. Cây sào bỗng nẩy chồi
ra lá. Thời gian sau từ chỗ đó mọc lên một rừng trúc tốt
tươi lan rộng cả vùng, người ta gọi nơi ấy là Trượng
Lâm. Quần chúng Phật tử kéo đến chiêm bái chứng tích mầu
nhiệm của cây gậy đo Phật. Nơi đây rừng núi khô cằn
hoang dã, thiếu nước uống nghiêm trọng, tôn giả Thú-bác-ca
liền vận thần thông biến ra hai suối nước một nóng, một
lạnh để mọi người tha hồ sử dụng. Hai suối này nằm
cách mười dặm về phía Tây Nam của Trượng Lâm. Dân chúng
vùng này mãi nhớ ơn đức của Tôn giả.
Theo
Pháp Trụ Ký, ngài Thú-bác-ca là vị La-hán thứ chín, thường
cùng 900 vị La-hán trụ trong núi Hương Túy.
Hình
tượng đưa hai tay lên rất sảng khoái của một vị La-hán
sau cơn thiền định. Ngài tên là Bán-thác-ca? 半託迦 (Panthaka),
Trung Hoa dịch: Đại lộ biên sanh. Ngài là anh của Châu-lợi-bàn-đặc.
Tương truyền hai anh em đều sanh ở bên đường, khi mẫu thân
trở về quê ngoại sinh nở theo phong tục Ấn Độ.
Bán-thác-ca
lớn lên là một thanh niên trí thức, nhân mỗi khi theo ông
ngoại đi nghe Phật thuyết pháp, bèn có ý định xuất gia.
Được gia đình chấp thuận, Ngài gia nhập Tăng đoàn, trở
thành một vị Tỳ-kheo tinh tấn dõng mãnh, chẳng bao lâu chứng
quả A-la-hán. Nhớ đến em mình là Châu-lợi-bàn-đặc, Ngài
trở về hướng dẫn em xuất gia. Rất tiếc, thời gian đầu
thấy em mình quá dốt nên Ngài khuyên em hoàn tục. Đó cũng
là vì tình thương và trách nhiệm nên Tôn giả đối xử như
thế, hoàn toàn không phải giận ghét.
Về
sau, khi Châu-lợi-bàn-đặc chứng Thánh quả, chính Tôn giả
Bán-thác-ca là người mừng hơn ai hết. Cả hai anh em dẫn
nhau về pháp đường, đại chúng cảm động tán thán ngợi
khen. Đức Phật dạy: "Này Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đặc,
khó ai được như hai anh em các ông, vừa cùng xuất gia học
đạo, vừa tận trừ phiền não lậu hoặc, chứng quả A-la-hán.
Sau này hai ông nên đồng tâm hiệp lực lưu lại nhân gian
để hoằng dương Phật pháp".
Hai
tôn giả vâng lời Phật nên thường tùy hỷ hóa độ chúng
sanh.
Theo
Pháp Trụ Ký, Tôn giả Bán-thác-ca là vị La-hán thứ mười,
Ngài thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.
11.
La Hán Trầm Tư
Ngài
chính là La-hầu-la 羅喉羅 (Rāhula). Sau khi theo Phật xuất
gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập
khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu
tập để chứng Thánh quả. Ngài luôn khiêm cung nhẫn nhục,
không thích tranh cãi hơn thua, phòng của mình bị người chiếm
ở, Ngài lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua đêm. Đi khất
thực bị bọn côn đồ ném đá trúng đầu chảy máu, Ngài
lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch rồi tự tay băng bó. Tín
chủ cúng cho Ngài một tịnh thất, ít lâu sau đòi lại đem
cúng người khác, Ngài cũng bình thản? dọn ra khỏi phòng.
Sau
khi chứng quả A-la-hán, Ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật
khen tặng Ngài là Mật hạnh đệ nhất và chọn Ngài vào trong
số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với đức tánh lặng lẽ,
Ngài được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư.
Sau
Phật diệt độ, vua nước Câu-thi-na không tin Phật pháp, đập
phá chùa viện, thiêu hủy kinh tượng, số người xuất gia
giảm sút. Có một Hòa thượng ôm bát vào thành khất thực,
nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm Ngài mới
gặp một gia đình tin Phật cúng cho bát cháo nóng. Hòa thượng
hớp xong miếng cháo thở dài, thí chủ hỏi thăm thì được
Hòa thượng kể lại thời Phật còn tại thế, Ngài cũng từng
theo Phật đến đây khất thực, lúc ấy nhà nhà tranh nhau
cúng dường, khác hẳn ngày nay. Hòa thượng tiết lộ thân
thế mình chính là La-hầu-la, mấy trăm năm nay dốc lòng hoằng
dương Phật pháp.
Theo
Pháp Trụ Ký, Ngài là vị la-hán thứ mười một, thường
cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù châu.
12. La Hán Khoái Nhĩ
Ngài
tên là Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay còn gọi là Na
Tiên. Nāgasena theo tiếng Phạn nghĩa là đội quân của rồng
và tượng trưng sức mạnh siêu nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng
ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán nổi tiếng về tài biện
luận. Đương thời của Ngài gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị,
nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng
tôn giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích
thân phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế vương và
bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng ta một tác
phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam
truyền và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ
dạy của tôn giả Na Tiên mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở
thành vị quốc vương anh minh hết lòng ủng hộ Phật pháp.
Có
chỗ nói ngài Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của
Ngài mô tả vị La-hán đang ngoáy tai một cách thú vị. Mọi
âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, rất thường
trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt
căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người
vào đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên.
Theo
Pháp Trụ Ký, Ngài cũng là vị La-hán thứ mười hai, thường
cùng 1.200 vị A-la-hán trụ trong núi Bán-độ-ba.
13. La-hán Bố Đại
Tên
của Ngài là Nhân-yết-đà 因羯陀 Nhân-kiệt-đà (Angada).
Theo truyền thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ
này nhiều rắn độc hay cắn chết người, Ngài bắt chúng,
bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành
động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được
xem như biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, Ngài thường
mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng hợp
như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa.
Nhân
có một người nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát
Di-lặc, nhưng chưa được thấy diện mạo Bồ-tát nên không
dám làm. Ông lập hương án trong vườn hoa chí thành khấn
nguyện, cung thỉnh một vị Hiền Thánh đến để giúp ông.
Khấn xong thì có một vị La-hán xuất hiện xưng tên là Nhân-yết-đà,
đến đưa ông lên cung trời Đâu-suất để gặp Bồ-tát Di-lặc.
Tôn giả đã đưa người này lên cung trời trước sau cả
thảy ba lần để chiêm ngưỡng chân tướng trang nghiêm của
Bồ-tát. Tượng Bồ-tát tạo xong được bảo tồn tại thủ
đô nước Ô-trượng-na, đó là nhờ công ơn của Tôn giả.
La-hán
là bậc bất sanh bất diệt, đến đi tự tại, các Ngài du
hóa nhân gian dưới mọi hình thức. La-hán Bố Đại có hình
tướng mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên mình như là hiện
thân của Bồ-tát Di-lặc, trong câu chuyện trên đã có ít
nhiều liên hệ.
Theo
Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ mười ba, thường cùng
1.300 vị A-la-hán trụ trong núi Quảng Hiếp.
Tên
của Ngài là Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin). Theo truyền
thuyết khi mẹ Ngài vào rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội
và bà hạ sanh Ngài trong lúc ấy. Sau khi xuất gia với Phật,
Ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các
cây chuối nên còn được gọi là La-hán Ba Tiêu.
Có
lần, đức Phật hàng phục con yêu long trong một cái đầm
sâu. Cảm phục ân đức của Phật, yêu long xin Ngài lưu lại
chỗ của mình để được gần gũi cúng dường. Phật dạy
Ngài không thể ở một nơi lâu, nên cử năm vị Đại A-la-hán
đến, đó là các vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Nhân-kiệt-đà,
Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư. Khi tôn giả Phạt-na-bà-tư
đến tiếp nhận lễ vật cúng dường, Ngài thường thích
tọa thiền trên phiến đá lớn bên cạnh đầm, khi thì ngồi
suốt tuần, lúc ngồi cả nửa tháng.
Theo
lời phó chúc của đức Phật, Tôn giả lưu tâm hóa độ vua
Ca-nị-sắc-ca. Nhân dịp nhà vua đi săn, Tôn giả hóa làm con
thỏ trắng dẫn đường cho vua đến gặp một mục đồng
đang lấy bùn đất nặn tháp Phật. Mục đồng nói rằng Phật
thọ ký 400 năm sau vua Ca-ni-sắc-ca sẽ xây tháp thờ Phật
tại đây. Mục đồng ấy cũng chính là Phạt-na-bà-tư hóa
hiện. Từ đó, vua trở nên bậc đại quân vương hoằng dương
Phật pháp, xây chùa tháp tự viện, ủng hộ cúng dường Tăng
chúng, tổ chức kiết tập kinh điển Phật giáo lần thứ
tư tại thủ đô Ca-thấp-di-la. Tất cả những thành tựu này
đều nhờ thâm ân giáo hóa của tôn giả Phạt-na-bà-tư.
Theo
Pháp Trụ Ký, tôn giả Phạt-na-bà-tư là vị La-hán thứ mười
bốn, ngài và 1.400 vị La-hán thường ở trong núi Khả Trụ.
15 La Hán Trường Mi
Tên
của Ngài là A-thị-đa 阿氏多 (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn
nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi Ngài mới sanh ra đã có
lông mày dài rủ xuống, điều báo hiệu kiếp trước Ngài
là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, Ngài phát triển
thiền quán và chứng A-la-hán.
Ngài
cũng là một trong những thị giả Phật, khi chứng quả xong
vẫn thường du hóa trong dân gian. Một hôm đến nước Đạt-ma-tất-thiết-đế,
nhân dân nước này không tin Phật pháp, chỉ thờ quỷ thần
sông núi. Thái tử nước này bệnh nặng, vua cho mời danh y
trị bệnh và thỉnh giáo các nhà tu ngoại đạo. Các vị ấy
bảo: “Đại vương chớ lo, bệnh của Thái tử không cần
uống thuốc cũng khỏi.” Khi gặp tôn giả A-thị-đa, vua hỏi
thử thì Tôn giả bảo rằng bệnh không qua khỏi. Vua rất
tức giận bỏ đi. Một tuần sau, Thái tử chết thật, vua
tạm thời không tổ chức tang lễ, ngày hôm sau vua đi gặp
tôn giả A-thị-đa, Ngài chia buồn với vua, còn khi vua gặp
các ngoại đạo thì lại nghe chúc mừng Thái tử hết bệnh.
Điều này chứng tỏ các ngoại đạo không có dự kiến đúng
đắn. Nhà vua từ đó quy ngưỡng Phật pháp. Nhờ sự hoằng
dương của Tôn giả mà Phật pháp hưng thịnh ở nước này.
Đã
hơn 2.000 năm, nhưng tại Ấn Độ vẫn tin rằng tôn giả A-thị-đa
còn đang trị bệnh cho người hay tọa thiền trên núi.
Pháp
Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ mười lăm, thường cùng
1.500 A-la-hán trụ trong Linh Thứu Sơn.
16. La-hán Kháng Môn *
Tên
của Ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特
(Cullapatka). Truyền thuyết Phật giáo nhắc đến Ngài như một
tấm gương cần cù nhẫn nại. Vì không thông minh như anh nên
khi xuất gia Ngài không tiếp thu được Phật pháp, kể cả
xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về sau được sự chỉ
dạy lân mẫn của Thế Tôn, Ngài thực hành pháp môn quét
rác với cây chổi trên tay. Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực
hành lời dạy của Phật, quét sạch mọi cấu uế bên trong
lẫn bên ngoài, Ngài đã chứng Thánh quả.
Một
hôm đại thần Kỳ-bà thành Vương Xá thỉnh Phật và các
vị A-la-hán đến nhà thọ trai. Tôn giả Bán-thác-ca không
biết em mình đã chứng quả nên không phát thẻ tham dự. Đến
khi chuẩn bị thọ trai, Phật bảo Bán-thác-ca về tinh xá xem
có sót người nào. Tôn giả về Trúc Lâm thì thấy cả ngàn
vị Hòa thượng đang tọa thiền rải rác trong vườn. Ngạc
nhiên và dùng thiên nhãn quán sát, mới vỡ lẽ ra đó là trò
đùa của em mình, Tôn giả mừng rỡ xúc động, tán thán công
phu của Châu-lợi-bàn-đặc.
Theo
truyền thuyết, khi đi khất thực Tôn giả gõ cửa một nhà
nọ và làm ngã cánh cửa cũ hư. Điều này cũng gây bối rối!
Về sau, Phật trao cho Tôn giả một cây gậy có treo những
chiếc chuông nhỏ để khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu
chủ nhân muốn bố thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông
rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu tượng của Tôn giả,
và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật giáo.
Theo
Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị La-hán thứ mười sáu, cùng
với 1.600 vị A-la-hán thường trú tại núi Trì Trục.
Ngài
tên là Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra), Trung Hoa dịch
Khánh Hữu, ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại
nước Sư Tử.
Ngài
là vị Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang
nghiêm. Tương truyền có một lần cả đảo Sư Tử bị Long
Vương dâng nước nhận chìm, Tôn giả ra tay hàng phục rồng
nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng Long. Khi Ngài sắp thị
tịch, mọi người buồn thương lo sợ vì thế gian sẽ không
còn bậc La-hán. Ngài cho biết có 16 vị La-hán vâng lệnh Phật
lưu trụ cõi Ta-bà để ủng hộ Phật pháp. Lời dạy của
Ngài được ghi chép lại thành bộ “Pháp Trụ Ký”. Nói
“Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả Khánh Hữu bay lên không trung
hóa hiện vô số thần biến, rồi dùng chơn hỏa tam-muội
thiêu thân. Xá-lợi ngũ sắc rơi xuống như mưa, mọi người
tranh nhau lượm mang về tôn thờ cúng dường.
Tuy
đã thiêu thân, nhưng Tôn giả không rời nước Sư Tử, Ngài
bay về động đá trên núi để tọa thiền. Thời gian thoáng
chốc đã hơn 400 năm, khi Tôn giả xuất định Ngài ôm bát
xuống núi khất thực thì thấy phong cảnh đã đổi khác.
Ngài nhẫm tính lại và khám phá ra mình đã tọa thiền hơn
400 năm bèn bật cười ha hả. Sau đó Ngài thường xuất hiện
khắp nơi, khi thì trì bát, lúc thì giảng kinh… Mọi người
vẫn còn tin rằng Ngài vĩnh viễn không rời thế gian mà luôn
luôn cùng 16 vị La-hán kia tiếp tục hoằng hóa.
* Dị
bản: Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la là vị La-hán thứ 17, do
mọi người tưởng nhớ công ơn ngài nói ra Pháp Trụ Ký.
18. La Hán Phục Hổ
Tên
của Ngài là Đạt-ma-đa-la 達磨多羅 (Dharmatrāta), người
ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. Thuở nhỏ Đạt-ma-đa-la đến
chùa, rất thích chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La-hán thờ
trong điện. Sư phụ cũng hay kể cho cậu bé nghe những chuyện
thần kỳ của các vị La-hán, dần dần trong tánh linh trẻ
thơ in đậm hình ảnh các Ngài, thậm chí khi ngủ cũng mơ
thấy.
Một
hôm trong khi đang chiêm lễ, Đạt-ma-đa-la bỗng thấy các hình
tượng La-hán cử động, vị thì quơ tay, vị thì chớp mắt
như người thật. Ngỡ mình hoa mắt, Đạt-ma-đa-la định thần
nhìn kỹ lại, lần này thấy rõ hơn, một số vị còn cười
tươi tắn. Từ đó Đạt-ma-đa-la càng thêm siêng năng lễ
kỉnh, và ngày nào cũng được chứng kiến các kỳ tích cảm
ứng. Đạt-ma-đa-la theo hỏi một vị La-hán cách tu tập để
được trở thành La-hán. Ngài chỉ dạy cậu nên siêng năng
tọa thiền, xem kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la phát
tâm tu hành, thực hiện lời dạy của bậc La-hán nên chẳng
bao lâu chứng quả.
Thành
một A-la-hán thần thông tự tại, Ngài thường du hóa trong
nhân gian, giảng kinh thuyết pháp, gặp tai nạn liền ra tay
cứu giúp. Tôn giả ba lần thu phục một con hổ dữ đem nó
về núi cho tu, đi đâu thì dẫn theo. Bên cạnh hình tượng
Ngài người ta vẽ thêm một con hổ, Ngài thành danh La-hán
Phục Hổ.
La-hán
Hàng Long và La-hán Phục Hổ là hai vị được đưa thêm vào
danh sách Thập Lục La-hán, để trở thành một truyền thuyết
vĩnh viễn được tôn thờ.
La
Hán Đường Thiền Viện Thường Chiếu, nơi thờ 18 vị La
Hán đã được khánh thành vào tháng 1 năm 2006 (tức tháng
chạp năm Ất Dậu). Ngôi nhà được kiến trúc theo phong cách
Việt Nam. Nhà 9 gian bằng gỗ, mái ngói. Mái cong hài hoà, tạo
cho ngôi nhà thật hùng tráng, uy nghi.
Tại
miền bắc đã có nhiều ngôi chùa thờ 18 vị La
Hán chẳng hạn như chùa Tây Phương, chùa Dâu,… nhưng
riêng tại miền Nam, có thể nói đây là nơi thờ 18 vị La
hán đầu tiên. Tất cả những thiết kế mẫu mã hình tượng
đều do Thiền viện thực hiện.
Bấm vào xem trang Thiền Tông Việt Nam
http://www.thientongvietnam.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét